Hiển thị các bài đăng có nhãn đánh giá khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đánh giá khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Đánh giá khoa học

Vài tuần trước tôi có dịp nói chuyện về đề tài đánh giá khoa học trong một seminar của nhóm nghiên cứu informetrics thuộc ĐH Tôn Đức Thắng (1). Tôi bàn về 3 tiêu chí để đánh giá nghiên cứu khoa học: lượng, chất, và tác động. Đây cũng là những tiêu chí mà người ta hay dựa vào để cấp tài trợ và giải thưởng. Nhưng mỗi tiêu chí đều có cái hay và cái dở, nên việc áp dụng phải hết sức cẩn thận.



Hiện nay, theo tôi biết Chính phủ VN chi hơn 3000 tỉ đồng (tức khoảng 150 triệu USD) cho nghiên cứu khoa học (2). Nhưng đánh giá hiệu quả của số tiền đầu tư thì chưa có hệ thống mấy. Báo chí thì than phiền là có quà nhiều nghiên cứu bị xếp học tủ, hoặc không ứng dụng được (tức không có tác động). Giới khoa học thì nói cần phải có thời gian mới ứng dụng được. Lại có người nói trình độ kinh tế của VN chưa đủ để ứng dụng thành quả nghiên cứu khoa học từ VN! Tôi nghĩ vấn đề là thiếu một hệ thống đánh giá hoàn chỉnh. Do đó, trong bài nói chuyện, tôi bàn về các thước đo trong đánh giá khoa học. Tựu trung lại, có 3 thước đo chính: số lượng, phẩm chất, và tác động.

1. Lượng

Trước đây (và ngay cả ngày nay) rất nhiều nơi chạy theo số lượng. Số lượng bài báo, số lượng tiền xin được, số lượng nghiên cứu sinh đào tạo, v.v. được xem như là những chỉ số quan trọng để đánh giá. Những nước mới nổi hay đang trong quá trình "phấn đấu" như Tàu, Đài Loan, Hàn Quốc, v.v. thì họ rất quan tâm đến số lượng công bố quốc tế. Việt Nam ngày nay cũng thế, tức là cũng chạy theo lượng. Nhưng ai cũng biết đó là cách làm đơn giản và không công bằng. Lượng chỉ phản ảnh cái mà tôi gọi là "activity", chứ không phản ảnh đầy đủ thành quả của nghiên cứu khoa học.

2. Phẩm

Một khía cạnh khác là phẩm chất (sau này gọi là "chất lượng") khoa học, nhưng chất thì khó đánh giá. Ông bà mình đã chẳng từng nói "Dò sông dò biển dễ dò/ Có ai lấy thước mà đo lòng người" sao! Rất nhiều chỉ số đã được đề ra để đánh giá phẩm chất khoa học, nhưng tất cả đều có khiếm khuyết. Cách đơn giản nhất là dùng peer, nhưng cách làm này thiếu tính khách quan, dù đây là cách làm cổ điển. Các giải thưởng cũng nói lên một phần về phẩm chất, nhưng không khách quan. Còn impact factor (IF)? Bất cứ ai có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học đều biết chỉ số IF không thích hợp cho việc đánh giá phẩm chất, nhưng nó là chỉ số dễ hiểu nhất và được dùng phổ biến nhất. Trong bài nói chuyện, tôi liệt kê (có lẽ chưa hết) các vấn đề của IF. Các chỉ số khác như citation, và các thước đo dựa vào citation (h index, g index, i5, v.v.) thì có phần tốt hơn, nhưng vẫn có vài khiếm khuyết về thời gian tính và văn hoá ngành.

Các nhóm xếp hạng đại học trên thế giới không dùng số bài báo, mà chỉ dùng số citation, để phân tích và xếp hạng các đại học. Cái giả định đằng sau cách làm này là phẩm chất nghiên cứu có liên quan với citations. Một giả định ngầm là các tập san dỏm sẽ chẳng có ai trích dẫn. Do đó, dùng citation làm chỉ số xếp hạng hoá giải vấn đề thật giả. Nhưng như nói trên, citation cũng có vấn đề về thời gian và văn hoá ngành, nên cũng chưa phải là chỉ số tốt nhất.

3. Tác động

Xu hướng mới là ngoài số lượng và chất lượng, phải xem xét đến impact (tác động). Có hai loại tác động trong nghiên cứu: tác động khoa học và tác động xã hội. Tác động khoa học có liên quan đến phẩm chất và có thể phản ảnh qua citation. Còn tác động xã hội thì khó đánh giá, và thường thì chỉ có người am hiểu trong ngành mới đánh giá được. (Người trong ngành mà còn junior hay không am hiểu cũng không thể đánh giá.) Hai chữ "xã hội" ở đây phải hiểu là tác động đến thực hành, chính sách, làm thay đổi nhận thức, v.v. Một nghiên cứu có thể làm thay đổi cách chẩn đoán bệnh và giảm số người cần điều trị hay cứu nhiều người được xem là có societal impact. Nghiên cứu có tác động xã hội như thế có khi không phản ảnh qua số lần trích dẫn. Đó chính là lí do hiện hữu của chỉ số tác động trong đánh giá nghiên cứu khoa học.

Quay lại tình hình ở bên nhà, tôi nghĩ Việt Nam cần phải phát triển một hệ thống đánh giá nghiên cứu khoa học cho tốt để trước là chọn đúng đề tài cho tài trợ, và sau là không phí tiền của người dân. Theo tôi, hệ thống đánh giá cần phải dựa trên 3 tiêu chí về lượng, phẩm, và tác động. Ở nơi khác thì tôi chưa rõ, nhưng ở Úc và Mĩ (nơi mà tôi hay duyệt đề cương nghiên cứu) thì đánh giá tác động gần như là bắt buộc.

Xin nói thêm rằng đây chỉ là những ý kiến mang tính cá nhân, nhưng tôi cũng đã được mời nói cho vài đại học bên Úc (kể cả nơi tôi đang công tác là UNSW và UTS). Kèm theo đây là slides trên ResearchGate (1). Tôi phát hiện là ResearchGate là nơi rất tốt để chia sẻ nghiên cứu và báo cáo seminars.


(2) Con số ~150 triệu USD này chỉ dành cho nghiên cứu khoa học thì phải, vì tổng số tiền chi là khoảng 400-450 triệu USD.

Ps: ĐH Tôn Đức Thắng đang tuyển người có kinh nghiệm về informetrics và scientometrics để làm việc trong một dự án qui mô về đánh giá khoa học và giáo dục, và phát triển phương pháp đánh giá. Hàng loạt projects nghiên cứu đang và sắp được triển khai; một số dự án đòi hỏi kĩ năng database và thống kê học. Trường cần người có kinh nghiệm và kiến thức tốt về đánh giá khoa học và trắc lượng giáo dục (educational measurement), kinh nghiệm về phân tích dữ liệu, am hiểu về phương pháp nghiên cứu khoa học. Ưu tiên cho ứng viên có công bố quốc tế trong chuyên ngành. Lương bổng hấp dẫn, tốt hơn mấy trường khác. Bạn nào thấy mình đáp ứng các điều kiện trên, gửi cv về cho Trường hay cho tôi.



Một danh sách các nhà khoa học VN có ảnh hưởng trên trường quốc tế

Nhóm của tôi đang làm một nghiên cứu về trắc lượng khoa học (scientometrics), và trong quá trình điểm qua y văn thì bắt gặp bài nghiên cứu dưới đây mới công bố trên PLoS Biology. Bài phân tích này đưa ra một cách đánh giá thành tích của một nhà khoa học dựa trên các chỉ số trích dẫn nhưng xem xét đến vị trí tác giả trong bài báo. Họ đưa ra một danh sách hơn 84 ngàn nhà khoa học, và tôi lọc ra danh sách những nhà khoa học mang họ Việt kèm dưới đây.



Trên thế giới hiện nay có khoảng 12 triệu nhà khoa học có công bố quốc tế (theo báo cáo của JCI). Nhưng trong số này chỉ có khoảng 2 triệu (?) là công bố thường xuyên. Nghiên cứu khoa học ngày nay càng ngày càng quốc tế hoá, và hợp tác nghiên cứu là điều bình thường. Khi hợp tác thì bài báo có nhiều tác giả.

Sự hiện diện của nhiều tác giả làm cho việc đánh giá trở nên khó khăn. Vấn đề đặt ra là ai là chính và ai là phụ. Trong hệ thống nghiêm chỉnh thì tất cả những người đứng tên tác giả đều có đóng góp, nhưng làm sao đánh giá được công trạng. Thành ra, người ta tạm đánh giá bằng cách chia đều công trạng cho mỗi tác giả. Một cách khác là đánh giá dựa vào "tác giả chính" hay "correspondence author". Trong bài này, các tác giả đề ra 6 chỉ số để đánh giá:
  •  NC: tổng số citations trong năm 2013;
  • NS:  tổng số citations trong năm 2013 của những bài báo mà nhà khoa học là tác giả duy nhất;
  • NSF: tổng số citations trong năm 2013 của những bài báo mà nhà khoa học là tác giả đầu;
  • NSFL: tổng số citations trong năm 2013 của những bài báo mà nhà khoa học là tác giả đầu hoặc tác giả cuối;
  • H: chỉ số H
  • Hm: chỉ số H theo cách tính của Schreiber (H chia cho đồng tác giả.


Sau đó, dựa trên 6 chỉ số, họ tính toán một chỉ số hỗn hợp gọi là "Composire Score". Họ xếp hạng nhà khoa học dựa vào chỉ số hỗn hợp. Họ dùng chỉ số này để "nhận dạng" các nhà khoa học đẳng cấp Nobel. Nhưng ngay cả chỉ số hỗn hợp này cũng chỉ nhận dạng vài nhà khoa học đoạt giải Nobel. Tuy nhiên, trong thực tế đây chỉ là cách đánh giá ngắn hạn. Do đó, các tác giả kết luận rằng không có một chỉ số nào, dù là đơn lẻ hay tổng hợp, để đánh giá nhà khoa học, mặc dù các chỉ số này phản ảnh tầm ảnh hưởng.

Tôi thử download toàn bộ danh sách 84 ngàn nhà khoa học, và tìm những người gốc Việt, thì nhận ra được 50 người (xem danh sách). Tuy nhiên, chắc chắn danh sách này không đủ vì có người kí tên (mà không dùng họ) trong bài báo, và tôi không có thì giờ xem xét hết. Tuy nhiên, danh sách này cũng đáng để tham khảo.

Author
Field
NC
H
Hm
NS
NSF
NSFL
NP6013
%Self
COMP
Dang C.V.
MED
2419
28
11.784
293
532
1488
224
3.76%
4.3915
Dang L.
MED
558
13
1.588
1
241
255
23
0.36%
2.7828
Dang L.X.
CHEM
523
11
7.843
79
241
398
127
2.49%
3.5543
Dang Z.-M.
ENG
708
13
6.047
0
396
513
172
15.40%
3.1460
Do D.D.
CHEM
567
9
5.867
2
135
379
414
24.87%
3.0128
Do H.-L.
CS
52
4
4.000
45
48
49
80
3.85%
2.5009
Do H.-Q.
CHEM
385
8
4.500
0
176
176
13
0.00%
2.7106
Do H.L.
BIO
84
4
1.984
37
37
37
12
0.00%
2.3217
Do K.D.
CS
281
10
7.417
58
277
277
73
7.12%
3.3999
Do M.N.
CS
880
12
7.750
9
450
820
148
1.02%
3.5326
Doan A.
CS
319
10
4.105
0
184
205
59
0.00%
2.7379
Doan T.K.O.
PHYS
2533
19
0.062
0
0
0
240
7.94%
1.5195
Ho K.K.Y.
MED
189
6
3.228
45
46
163
44
0.00%
2.7800
Hoang T.
PHYS
957
14
0.317
0
0
0
169
14.11%
1.4154
Hoang-Xuan K.
MED
861
14
3.936
1
10
118
160
3.37%
2.6195
Nghiem L.D.
ENG
548
13
7.405
0
192
395
106
30.47%
3.0668
Nguyen C.
BIO
154
4
2.900
33
49
50
36
0.00%
2.5080
Nguyen C.
PHYS
1715
10
4.572
1
8
97
279
0.47%
2.6095
Nguyen C.T.-C.
ENG
342
9
5.783
96
123
324
137
8.77%
3.3197
Nguyen D.
PHYS
2609
20
0.321
0
7
7
194
1.65%
2.0364
Nguyen D.X.
MED
575
9
3.866
5
264
266
24
0.35%
3.0264
Nguyen E.
MED
1066
7
1.611
0
2
2
18
0.28%
1.7086
Nguyen G.
MED
373
10
5.658
32
152
242
81
1.07%
3.2177
Nguyen G.C.
MED
372
10
5.977
3
215
298
98
9.68%
3.0541
Nguyen H.
MED
2867
10
0.544
0
0
1
22
0.00%
1.5715
Nguyen H.
PHYS
2783
20
0.867
0
3
3
213
3.41%
1.9971
Nguyen H.T.
CS
69
3
2.500
43
59
65
164
0.00%
2.4184
Nguyen H.T.
BIO
890
13
5.992
0
15
364
188
0.90%
2.7870
Nguyen M.
PHYS
3224
22
0.212
1
1
1
310
5.92%
1.8390
Nguyen M.T.
CHEM
640
8
5.188
6
121
381
509
21.88%
3.0534
Nguyen N.-T.
ENG
603
11
6.933
56
232
436
256
6.30%
3.5047
Nguyen N.H.
CHEM
488
15
5.894
0
342
342
23
13.73%
3.0758
Nguyen N.P.
MED
292
8
3.988
0
184
224
94
13.01%
2.6840
Nguyen N.T.
CS
107
5
4.583
36
42
88
157
57.94%
2.6698
Nguyen N.T.
MED
935
13
7.122
0
512
753
215
2.35%
3.2827
Nguyen P.L.
MED
517
12
4.110
0
226
229
109
3.09%
2.8598
Nguyen Q.D.
HEALTH
794
14
3.965
0
267
360
153
2.64%
2.9933
Nguyen S.T.
CHEM
5555
27
10.966
0
10
1009
225
1.75%
3.3579
Nguyen T.
MED
367
10
3.525
0
248
279
31
0.00%
2.7808
Nguyen T.-Q.
CHEM
1336
18
7.941
0
141
801
130
8.76%
3.2876
Nguyen T.T.T.
BIO
255
8
4.456
4
160
173
74
0.39%
2.8343
Nguyen T.V.
MED
1229
16
7.938
3
142
428
232
6.27%
3.3431
Nguyen Thi Hong V.
PHYS
2099
18
0.050
0
0
0
187
4.10%
1.4850
Nguyen-Mau C.
PHYS
995
15
0.285
0
0
0
171
25.93%
1.4275
Nguyen-Thoi T.
ENG
497
13
6.633
0
111
260
47
29.38%
2.9273
Nguyen-Xuan H.
ENG
511
14
6.876
0
142
252
62
32.68%
2.9785
Son D.T.
PHYS
618
13
8.533
40
248
356
106
0.65%
3.5463
Tran L.-S.P.
BIO
629
13
5.898
0
171
420
63
19.71%
3.0174
Tran M.T.
PHYS
1182
17
1.208
0
23
23
232
25.21%
2.3009
Tran N.V.
PHYS
3078
21
0.772
0
0
14
267
5.88%
1.9918

 Nguồn: http://journals.plos.org/plosbiology/article/email?id=10.1371%2Fjournal.pbio.1002501

Dịch vụ SEO