Bài báo khoa học: Cách viết abstract

Tựa đề và bản tóm tắt là hai phản chiếu đầu tiên đập vào mắt của người đọc. Đây cũng là phần mà đại đa số người đọc đọc trước khi quyết định có nên đọc tiếp hay không. Tất nhiên, tựa đề và bản tóm tắt là hai phần được đưa vào danh mục của thư viện điện tử. Do đó, nhà nghiên cứu cần phải để tâm suy nghĩ cẩn thận khi soạn hai phần này sao cho thu hút sự chú ý của người đọc. Nhiều người nói rằng abstract là văn bản viết trước, nhưng trong thực tế thì đây là phần sau cùng của một bài báo khoa học.




Các bạn thử đọc qua abstract sau đây:

"This paper presents and assesses a framework for an engineering capstone design program. We explain how student preparation, project selection, and instructor mentorship are the three key elements that must be addressed before the capstone experience is ready for the students. Next, we describe a way to administer and execute the capstone design experience including design workshops and lead engineers. We describe the importance in assessing the capstone design experience and report recent assessment results of our framework. We comment specifically on what students thought were the most important aspects of their experience in engineering capstone design and provide quantitative insight into what parts of the framework are most important."

Có nhiều điều cần học từ bản tóm tắt này. Học cái không nên viết.

(a) Bản tóm tắt này bắt đầu bằng một mục tiêu, nhưng ngay sau đó thì tác giả bắt đầu lan man từ các chi tiết mang tính kĩ thuật, và đến cuối cùng thì độc giả vẫn không nắm được cái thông điệp chính của bài báo.

(b) Cách viết thì dùng thể văn cá nhân, kiểu "We explain", "we discuss", "we comment", v.v. tuy không có gì sai, nhưng dùng những I, We nhiều quá làm cho độc giả có thể cảm thấy khó chịu.

(c) Toàn bộ bản abstract không hề có một kết quả gì để độc giả lãnh hội. Bất cứ một bài báo nào cũng có vài kết quả, hoặc là định lượng hoặc là định tính, nhưng bài này thì không thấy trình bày trong bản tóm tắt ("Next, we describe… We comment specifically on what students thought were the most important aspects of their experience in engineering capstone design…"). Tác giả chỉ nói về cơ cấu bài báo! Nói theo dân nhà nghề là "chỉ có súp mà không có thịt."

Nhìn chung, tôi thấy bản tóm tắt này viết chưa đạt. Đọc xong bản abstract, người đọc không thấy mình lãnh hội được thông tin gì mới, cũng chẳng có một thông tin gì cụ thể về phương pháp, và quan trọng nhất là không có thông điệp chính. Những thiếu sót này cần phải tránh khi viết bản abstract.

Chữ Abstract trong tiếng Anh thật ra có nguồn từ tiếng Latin, với ab có nghĩa là phía ngoài, và trahere có nghĩa là rút ra. Do đó, abstract có thể hiểu nôm na là rút những nét chính ra ngoài. Trong thực tế, abstract hay bản tóm tắt, như tên gọi, là một văn bản lược giản những nội dung chính của một bài báo. Do đó, bản tóm lược phải là một văn bản độc lập, hiểu theo nghĩa người đọc không cần đọc toàn bộ bài báo mà vẫn nắm được mục tiêu nghiên cứu, phương pháp, kết quả chính, và kết luận của công trình nghiên cứu.

Do đó, bản tóm tắt đóng vai trò quan trọng. Thật vậy, cứ 500 người đọc bản tóm tắt thì chỉ có 1 người đọc toàn văn bài báo. Tổng biên tập tập san JAMA từng nói rằng bản tóm tắt là một văn bản rất quan trọng, nhưng thường được viết rất dở. Tất cả những thông tin trên phải được viết trong vòng 250 đến 300 từ (tùy theo qui định của tập san). Viết bản tóm lược cho tốt, do đó, là một thách thức đáng kể. Cái gì cũng cần phải có nguyên tắc, và soạn bản tóm tắt cũng không phải là một ngoại lệ. Dưới đây tôi trình bày 5 nguyên tắc để viết bản tóm tắt: cái mới, tầm quan trọng, chứng cứ, ngắn gọn, và trong sáng (4 nguyên tắc đầu là do Bs Petrache và Diette của tập san Thoracic đề xướng).

Nguyên tắc 1: cái mới.

Tâm lí độc giả khoa học thường hay chú ý đến cái mới. Khi đọc một bài báo họ tự hỏi có cái gì mới trong bài báo này. Do đó, tác giả cần phải nghĩ đến điểm gì mới của bài báo, và điểm mới này phải được viết ra ngay trong bản tóm tắt. Có thể bắt đầu ở phần bối cảnh (background), với một câu văn như:

"Trabecular bone score has emerged as an important predictor of fragility fracture, but factors underlying the individual differences in TBS have not been explored. In this study, we sought to determine the genetic contribution to the variation of TBS in the general population."

Một ví dụ khác:

"It has been widely assumed that for a given BMI, Asians have higher percent body fat (PBF) than whites, and that the BMI threshold for defining obesity in Asians should be lower than the threshold for whites. This study sought to test this assumption by comparing the PBF between US white and Vietnamese women."

Trong câu trên, chúng ta thấy tác giả chỉ ra ngay cái khoảng trống tri thức về TBS ngay từ câu đầu tiên. Câu thứ hai chính là mục tiêu của nghiên cứu. Chỉ cần ngắn gọn như thế là có thể thu hút người đọc.

Nguyên tắc 2: tầm quan trọng.

Những độc giả y khoa thuờng quan tâm đến cái tiếng Anh gọi là "significance" hay tầm quan trọng của nghiên cứu. Họ hỏi "Nghiên cứu này có làm thay đổi nhận thức của tôi, hay có làm thay đổi thực hành lâm sàng?" Do đó, tác giả cần phải nghĩ đến cái gì là quan trọng trong công trình nghiên cứu. Cái quan trọng có thể liên quan đến -- nhưng không nhất thiết phải là -- cái mới. Ví dụ như bài báo về khám phá 56 gen có liên quan đến loãng xương (Nat Genet 2012), các tác giả viết như sau:

"These findings shed light on the genetic architecture and pathophysiological mechanisms underlying BMD variation and fracture susceptibility."

hay như bài báo về kháng thuốc ở bệnh nhân ICU, tác giả viết:

"These data indicated that critically ill patients on ventilator in Vietnam were at disturbingly high risk of antimicrobial resistance".

Cách viết ngắn gọn đó nói lên cái tầm ảnh hưởng của phát hiện được trình bày trong abstract.

Nguyên tắc 3: chứng cứ.

Một bản abstract tốt là phải có thông tin định lượng, và kết luận dựa trên thông tin đó. Nếu kết quả cho thấy mối liên quan có ý nghĩa lâm sàng mà kết luận cho rằng không có ý nghĩa lâm sàng là rất không nên. Chẳng hạn như bài báo gần đây trên JAMA về ảnh hưởng của calcium và vitamin D (CaD) trên ung thư, phần kết quả tác giả ghi nhận rằng bổ sung CaD giảm nguy cơ ung thư 30% (Lappe et al, JAMA 2017), nhưng khi kết luận thì họ viết:

"supplementation with vitamin D3 and calcium compared with placebo did not result in a significantly lower risk of all-type cancer at 4 years."

Lại có nhiều bản abstract được viết ra với lời kết luận thiếu chứng cứ hay không hợp với chứng cứ. Đó là một điều … đại kị. Chẳng hạn như nghiên cứu phát hiện mối liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư, thì tác giả lại kết luận rằng nếu cấm hút thuốc lá thì sẽ ngăn ngừa ung thư. Lại có những kiến nghị theo sau mỗi bài báo. Nếu nghiên cứu chỉ phát hiện mối liên quan, tác giả chỉ có thể bàn về mối liên quan, chứ không thể nói gì về ngăn ngừa do chưa có chứng cứ về can thiệp.

Nguyên tắc 4: ngắn gọn.

Bản abstract là một văn bản rất … hà tiện. Số chữ có giới hạn (thường 100 đến 300 chữ), nhưng phải phản ảnh nội dung của một công trình nghiên cứu có khi kéo dài đến 10 năm. Do đó, cần phải tập cách viết ngắn gọn, sao cho không có chữ nào là thừa và cũng không có chữ nào thiếu. Nghĩ đến bản tóm tắt như là một chapeau của giới báo chí, tức chỉ vài chữ mà độc giả nắm được nội dung chính của bài báo.

Nguyên tắc 5: trong sáng.

Bản tóm tắt là một văn bản khoa học, mà khoa học thì đòi hỏi một văn phong trong sáng, trong sáng, và … trong sáng. Trong sáng ở đây phải hiểu là không để độc giả có thể nghĩ ra một cách diễn giải khác. Để đạt được yêu cầu này, tác giả phải tập cách viết câu văn ngắn (không quá dài), cấu trúc đơn giản, và có định lượng. Ví dụ như các câu văn dưới đây thì người ta không thể hiểu khác:

"The study involved 1765 patients in the development cohort and 1728 in the validation cohort. The main outcome was mortality up to 30 days after admission."

nhưng nếu viết

"The study involved two cohorts of patients from two independent hospitals. The main outcome was death after ICU admission"

thì không thể xem là trong sáng được.

Để đáp ứng 5 nguyên tắc trên, tác giả cần phải lưu ý 5 điểm dưới đây:

1.  Abstract là một văn bản độc lập với bài báo.

Bản tóm tắt tuy là một phần của bài báo khoa học, nhưng nó là một văn bản độc lập. Nếu các bạn nộp bài báo khoa học cho tập san, người ta thường yêu cầu nộp văn bản abstract riêng trong hệ thống online. Khi nói "độc lập" tôi cũng có ý nói rằng abstract là một bài báo ngắn. Nói ví von một chút thì abstract là một bài thơ của bài báo. Chúng ta biết rằng thơ cần phải được viết một cách cô đọng, và đó chính là cách viết phần abstract.

2.  Abstract là một tổng quan câu chuyện chính.

Vì là một văn bản độc lập, nên bản abstract phải là tổng quan của "câu chuyện". Câu chuyện ở đây là toàn bộ công trình nghiên cứu. Phải viết sao cho người đọc chỉ cần đọc qua bản abstract là biết được câu chuyện mà tác giả muốn chuyển tải đến người đọc.

3.  Mỗi phần trong bài báo cần phải được đề cập vài nét chính.

Vì là tổng quan, cho nên mỗi phần trong bài báo như dẫn nhập, phương pháp, kết quả, bàn luận và kết luận phải hiện diện trong abstract. Dĩ nhiên, vì là "bài thơ", nên mỗi phần như thế chỉ hiện diện rất ngắn gọn. Có lẽ phần kết quả là phần dài nhất của abstract, nhưng cũng chỉ có thể đưa vào những phát hiện chính, chứ không thể nào viết vài dòng được.

4.  Một abstract cần/nên có những thông tin về kết quả và kết luận.

Rất nhiều abstract, nhất là theo cách viết "truyền thống" ở trong nước, thường chỉ có những câu văn mang tính "hứa hẹn". Nhưng cách viết đó không còn thích hợp nữa, nhất là trong thời đại người ta bị quá tải về thông tin. Do đó, một bản abstract phải có thông tin (information content), và thông tin cần thiết nhất là kết quả nghiên cứu. Nếu có thông tin định lượng thì càng tốt. Ví dụ như một nghiên cứu với mục tiêu chính là đánh giá hiệu quả của một thuốc điều trị, thì thông tin cần phải có trong bản abstract là các chỉ số như tỉ số nguy cơ (relative risk) hay risk difference. Nếu nghiên cứu có mục tiêu đánh giá mối liên quan thì cần phải có kết quả về tỉ số odds để độc giả có thể nắm được kết quả chính. Ngoài ra, bản abstract nhất định phải có một câu văn kết luận. Nếu còn dư "đất" thì thêm một câu văn về ý nghĩa của phát hiện vừa trình bày trong phần kết quả.

5. Giới hạn trong vòng 100 - 300 chữ.

Các tập san y sinh học thường giới hạn số chữ trong bản abstract, và số chữ cho phép dao động trong khoảng 100 đến 300 chữ, kể cả khoảng trống. Ngày nay, có một số tập san còn yêu cầu tác giả phải có phần "min-abstract" mà tác giả phải viết trong vòng 200 mẫu tự để nói về nghiên cứu của mình. Mini-abstract có thể xem như là một chapeau của giới báo chí. Tóm tắt một bài báo 20-30 trang (có khi 50 trang) xuống còn 300 chữ hay 200 mẫu tự là một thách thức lớn, nhưng rất hào hứng. Nó luyện tác giả phải chọn chữ cho thích hợp và tập trung suy nghĩ về bài báo của mình. Do đó, cần phải đầu tư (có khi cả ngày suy nghĩ) chỉ để viết 300 chữ!

Có 2 loại tóm tắt: không có tiêu đề và có tiêu đề. Loại tóm tắt không có tiêu đề là một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu. Loại tóm tắt có tiêu đề -- như tên gọi – là bao gồm nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau đây: Background, Aims, Methods, Outcome Measurements, Results, và Conclusions. Tuy nhiên, dù là có hay không có tiêu đề, thì một bản tóm tắt phải chuyển tải cho được những thông tin quan trọng sau đây:

1.  Câu hỏi và mục đích của nghiên cứu. Phần này phải mô tả bằng 2 câu văn. Câu văn thứ nhất mô tả vấn đề mà tác giả quan tâm là gì, và tình trạng tri thức hiện tại ra sao. Câu văn thứ hai mô tả mục đích nghiên cứu một cách gọn nhưng phải rõ ràng.

Ví dụ: "Antimicrobial resistance has emerged as a major concern in developing countries. The present study sought to define the pattern of antimicrobial resistance in ICU patients with ventilator-associated pneumonia." Câu đầu tiên là nói về vấn đề lớn, câu thứ hai là mục tiêu.

2.  Phương pháp nghiên cứu. Cần phải mô tả công trình nghiên cứu được thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm của đối tượng, phương pháp đo lường, yếu tố nguy cơ (risk factors), chỉ tiêu lâm sàng (clinical outcome). Phần này có thể viết trong vòng 4-5 câu văn.

Ví dụ: "Between November 2014 and September 2015, we enrolled 220 patients (average age ~71 yr) who were admitted to ICU in a major tertiary hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam. Data concerning demographic characteristics and clinical history were collected from each patient. The Bauer–Kirby disk diffusion method was used to detect the antimicrobial susceptibility."

Một ví dụ khác: "The study involved 1765 patients in the development cohort and 1728 in the validation cohort. The main outcome was mortality up to 30 days after admission. Potential risk factors included clinical characteristics, vital signs, and routine haematological and biochemistry tests. The Bayesian Model Averaging method within the Cox’s regression model was used to identify independent risk factors for mortality."

Hai ví dụ trên cho thấy trong phần phương pháp, tác giả phải chỉ ra cho được số lượng bệnh nhân, mô hình nghiên cứu, và những đo lường chính. Có khi phương pháp phân tích đóng vai trò quan trọng trong bài báo, và do đó, cần phải đề cập đến (như trong ví dụ 2).

3. Kết quả. Trong phần này, tác giả trình bày những kết quả chính của nghiên cứu, kể cả những số liệu có thể lấy làm điểm thiết yếu của nghiên cứu. Nên nhớ rằng kết quả này phải được trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra từ câu văn đầu tiên.
Ví dụ như nghiên cứu về kháng thuốc, vì mục tiêu đề ra là xác định qui mô kháng thuốc, nên phần kết quả phải bám sát theo mục tiêu này. Mở đầu phần kết quả là đi thẳng vào kết quả quan trọng:

"Antimicrobial resistance was commonly found in ceftriaxone (88%), ceftazidime (80%), ciprofloxacin (77%), cefepime (75%), levofloxacin (72%). Overall, the rate of antimicrobial resistance to any drug was 93% (n = 153/164), with the majority (87%) being resistant to at least 2 drugs. The three commonly isolated microorganisms were Acinetobacter (n = 75), Kebshiella (n = 39), and Pseudomonas aeruginosa (n = 29). Acinetobacter baumannii were virtually resistant to ceftazidime, ceftriaxone, piperacilin, imipenem, meropenem, ertapenem, ciprofloxacin and levofloxacin. High rates (>70%) of ceftriaxone and ceftazidime-resistant Klebsiella were also observed."

Chú ý trong phần kết quả trên, vì quá nhiều kết quả, nên chỉ có thể tập trung vào những điểm chính mà thôi. Những con số quan trọng để trong ngoặc kép. Có khi kết quả phân tích rất nhiều, nên chỉ có thể nhắc đến một hay 2 điểm mà thôi:

"We identified 56 loci (32 novel)associated with BMD atgenome-wide significant level (P<5 a="" also="" and="" biology.="" bone="" cluster="" containing="" differentiation="" discovered="" endochondral="" factors="" genes="" however="" in="" known="" loci="" mesenchymal-stem-cell="" not="" o:p="" of="" ossification="" pathways.="" play="" rank-rankl-opg="" role="" several="" signalling="" the="" these="" to="" we="" within="" wnt="">

Chú ý trong đoạn văn trên, tác giả không cần đề cập đến các chi tiết về bệnh nhân (như tuổi, giới tính) mà đi thẳng vào kết quả phân tích.

4. Kết luận. Một hoặc 2 câu văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu. Có thể nói phần lớn độc giả chú tâm vào câu văn này trước khi học đọc các phần khác, cho nên tác giả cần phải chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút được sự chú ý của độc giả trong 2 câu văn quan trọng này.

Ví dụ như công trình về phát triển mô hình tiên lượng tử vong ở bệnh nhân cấp cứu, tác giả chỉ cần một câu đơn giản nhưng "punchy" là đủ:

"We conclude that the risk of mortality among ED patients could be accurately predicted by using common clinical signs and biochemical tests."

Ví dụ cụ thể về cách viết bản tóm tắt. Sau đây là một bản tóm lược tiêu biểu có tiêu đề. Bài báo này trình bày một công trình nghiên cứu về mối liên hệ giữa các thành phần cơ thể (mỡ, cơ, xương) ở một nhóm phụ nữ Việt Nam sau mãn kinh (LT Ho-Pham, et al. BMC Musculoskeletal Disorders 2010, 11:59). Bản tóm lược có 4 tiêu đề: dẫn nhập, phương pháp, kết quả và kết luận. Phần dẫn nhập chỉ tóm gọn trong 2 câu văn, với câu đầu nêu vấn đề vẫn còn trong vòng tranh cãi, và câu 2 phát biểu về giả thuyết và mục đích của nghiên cứu. Phần phương pháp mô tả số phụ nữ tham gia, độ tuổi, nơi nghiên cứu, phương pháp đo lường, và phương pháp phân tích. Phần kết quả đi thẳng vào kết quả chính với những con số cụ thể. Đương nhiên, những con số này sẽ được lặp lại chi tiết hơn trong bài báo. Phần kết luận chỉ một câu văn có tính cách trả lời câu hỏi nghiên cứu.

"Background. The relative contribution of lean and fat to the determination of bone mineral density (BMD) in postmenopausal women is a contentious issue. The present study was undertaken to test the hypothesis that lean mass is a better determinant of BMD than fat mass.
Methods. This cross-sectional study involved 210 postmenopausal women of Vietnamese background, aged between 50 and 85 years, who were randomly sampled from various districts in Ho Chi Minh City (Vietnam). Whole body scans, femoral neck, and lumbar spine BMD were measured by DXA (QDR 4500, Hologic Inc., Waltham, MA). Lean mass (LM) and fat mass (FM) were derived from the whole body scan. Furthermore, lean mass index (LMi) and fat mass index (FMi) were calculated as ratio of LM or FM to body height in metre squared (m2).
Results. In multiple linear regression analysis, both LM and FM were independent and significant predictors of BMD at the spine and femoral neck. Age, lean mass and fat mass collectively explained 33% variance of lumbar spine and 38% variance of femoral neck BMD. Replacing LM and FM by LMi and LMi did not alter the result. In both analyses, the influence of LM or LMi was greater than FM and FMi. Simulation analysis suggested that a study with 1000 individuals has a 78% chance of finding the significant effects of both LM and FM, and a 22% chance of finding LM alone significant, and zero chance of finding the effect of fat mass alone.
Conclusions. These data suggest that both lean mass and fat mass are important determinants of BMD. For a given body size -- measured either by lean mass or height --women with greater fat mass have greater BMD."

Về cách viết, có một số "câu văn tủ" có thể dùng để viết bản tóm tắt như sau. Những chữ hay dùng là evaluate, assess, compare, determine, ascertain, v.v.

• To evaluate the effects of interferons (IFNs) in experimental
• To present our experience with Affymetrix Gene Chips
• To study the role of Sox10 in early neural crest development
• To assess the effects of botulinum toxin in the treatment of cerebral palsy
• To compare the image acquisition time for digital …
• To determine the origin of oligodendrocytes in the developing
• To develop an efficient and fully unsupervised method
• To investigate the role of p53 on the induction
• To ascertain recent trends in imaging workload among
• To describe the clinical and biological characteristics of Krabbe’s disease

Bản tóm lược dưới đây là một abstract tiêu biểu không có tiêu đề (LT Ho-Pham, et al. Similarity in percent body fat between white and Vietnamese women: implication for a universal definition of obesity. Obesity 2010; 18:1242-6). Toàn bộ bản tóm lược chỉ là một đoạn văn. Nhưng nếu chú ý kĩ sẽ thấy những thông tin được trình bày trong abstract tuân thủ theo cấu trúc IMRAD. Phần dẫn nhập gồm 2 câu văn: câu đầu tiên nêu vấn đề nghiên cứu; câu thứ hai phát biểu mục đích nghiên cứu. Các câu kế tiếp mô tả phương pháp nghiên cứu, kết quả, và kết luận (xem phần viết đậm).

[Viết về bối cảnh nghiên cứu] It has been widely assumed that for a given BMI, Asians have higher percent body fat (PBF) than whites, and that the BMI threshold for defining obesity in Asians should be lower than the threshold for whites.

[Mục tiêu nghiên cứu] This study sought to test this assumption by comparing the PBF between US white and Vietnamese women.

[Phương pháp] The study was designed as a comparative cross-sectional investigation. In the first study, 210 Vietnamese women ages between 50 and 85 were randomly selected from various districts in Ho Chi Minh City (Vietnam). In the second study, 419 women of the same age range were randomly selected from the Rancho Bernardo Study (San Diego, CA).

[Kết quả] In both studies, lean mass (LM) and fat mass (FM) were measured by dual-energy X-ray absorptiometry (DXA) (QDR 4500; Hologic). PBF was derived as FM over body weight. Compared with Vietnamese women, white women had much more FM (24.8 +/- 8.1 kg vs. 18.8 +/- 4.9 kg; P or=30, 19% of US white women and 5% of Vietnamese women were classified as obese. Approximately 54% of US white women and 53% of Vietnamese women had their PBF >35% (P = 0.80).

[Kết luận] Although white women had greater BMI, body weight, and FM than Vietnamese women, their PBF was virtually identical. Further research is required to derive a more appropriate BMI threshold for defining obesity for Asian women.

Chú ý trong bản tóm tắt, chúng ta không cần viết nhiều chi tiết về phương pháp (ngoại trừ đó là bài báo về phương pháp). Không nên viết tắt những thuật ngữ mà người đọc ngoài ngành không am hiểu. Thông thường bảng tóm lược được viết sau khi đã hoàn tất bài báo. Kinh nghiệm của tôi cho thấy có khi tốn đến cả ngày chỉ để viết một bản tóm lược với 200 chữ. Tôi xem abstract như một bài thơ, tức là tác giả phải chọn từ ngữ rất cẩn thận để phản ảnh một cô đọng những điều mình muốn chuyển tải đến cộng đồng khoa học.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Dịch vụ SEO